Dịch Covid 19 kéo dài đang ảnh hưởng đến nhu cầu thực phẩm toàn cầu, trong đó bao gồm cả Việt Nam. Xu hướng làm việc và ăn uống mùa dịch có nhiều thay đổi để thích nghi với việc hạn chế ra ngoài và giãn cách xã hội. Vì vậy, các mặt hàng tiện lợi, đồ ăn nhanh và thực phẩm ăn liền dần trở nên thông dụng và cấp thiết. Mì ăn liền được phổ biến hơn vì đặc tính mang lại bữa ăn thuận tiện và có thể tích trữ dễ dàng. Vậy nên việc tiêu thụ mì ăn liền đang gia tăng trên toàn thế giới và Việt Nam đã vượt cả Trung Quốc lên vị trí thứ 3 về nhu cầu.
Mục Lục
Tiêu thụ mì ăn liền mùa dịch ở Việt Nam
Dưới tác động của dịch bệnh kể cả trong giai đoạn phục hồi. Xu hướng làm việc từ xa qua các thiết bị điện tử ngày càng tăng. Theo đó, xu hướng gia tăng của thực phẩm tiện lợi. Cùng với lịch trình làm việc tại nhà của người dân được kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội phát triển doanh thu mới cho thị trường mì ăn liền toàn cầu.
Mặc dù Trung Quốc có nhu cầu mì ăn liền cao nhất thế giới, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng về tiêu thụ mì ăn liền không cao như Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, khi tình hình dịch bệnh tại nhiều nước diễn biến phức tạp, cá biệt có công ty của Việt Nam xuất khẩu mì ăn liền tăng 300%. Hiện, phở ăn liền và mì ăn liền hiện Việt Nam đang xuất khẩu đến hơn 40 quốc gia trên thế giới.
Năm 2020, 2021, ngành sản xuất mì ăn liền đóng vai trò quan trọng. Trong ứng phó với tình trạng khẩn cấp về phòng dịch COVID-19 toàn cầu. Cụ thể, sự bùng phát dịch COVID-19 đã dẫn đến các biện pháp giãn cách xã hội. Phần lớn người tiêu dùng chuyển sang các tự nấu các bữa ăn, dự trữ thực phẩm khô. Mì ăn liền với sự tiện lợi, đa dạng về chủng loại, hương vị. Và giá cả phù hợp đã thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mặt hàng này.
Xu hướng của thị trường mì ăn liền
Khảo sát mới nhất của công ty nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam. Tỷ lệ tiêu thụ mì ăn liền trong bối cảnh dịch COVID-19 tăng 67%. Hiện nay Việt Nam có khoảng 50 công ty sản xuất mì ăn liền. Gồm các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam cũng như thương hiệu quốc tế khác. Điều này vừa tạo nên sự cạnh tranh. Vừa mang lại nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng cả về chủng loại, giá cả.
Đánh giá về xu hướng tiêu thụ mì ăn liền 2021-2026. Bộ Công Thương cho rằng dưới tác động của dịch COVID-19 kể cả trong giai đoạn phục hồi. Cùng với xu hướng làm việc từ xa ngày càng tăng. Việc gia tăng thực phẩm tiện lợi được kỳ vọng. Sẽ mở ra cơ hội phát triển doanh thu mới cho thị trường mì ăn liền toàn cầu. Chủng loại mì thịt gà dự kiến có sức tiêu thụ nhiều nhất, sẽ chiếm thị phần lớn nhất.
Về thị trường tiềm năng, dù Châu Á hiện có sức tiêu thụ lớn nhất thế giới. Nhưng tốc độ tăng trưởng nhu cầu hàng năm không cao dưới 17%, trừ Việt Nam. Giai đoạn 2022- 2026, dự kiến thị trường Châu Âu có tỷ lệ tăng trưởng hàng năm cao nhất từ 15% đến dưới 50%. Đối với các HS code như 19023030 (miến), 19023040 (mì ăn liền), 19023020 (mì, bún làm từ gạo), 190230 (sản phẩm từ bột nhào khác), 19023090 (loại khác) thuế xuất khẩu là 0%.
Nhu cầu mì ăn liền trên thế giới
Báo cáo nghiên cứu thị trường của Facts and Factors cho hay. Năm 2020 doanh thu của mì ăn liền toàn cầu 45,67 tỷ USD và đến năm 2026 dự kiến tăng lên 73,55 tỷ USD. Trong giai đoạn 2021-2026, doanh thu mì ăn liền tăng trưởng trung bình 6%/ năm. Qua đó, cho thấy tiềm năng lớn để phát triển kinh doanh mì ăn liền ở thị trường nội địa và thế giới.
Thống kê của Hiệp hội Mì ăn liền Thế giới (WINA). Cũng chỉ ra thị trường châu Á có sức tiêu thụ lớn nhất. Đặc biệt là khu vực Đông Bắc Á gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Chiếm 56,45% tổng tiêu thụ toàn cầu năm 2020. Tiếp đến là Đông Nam Á với năm thị trường tiêu thụ chính. Gồm Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Malaysia. Chiếm 25,24% nhu cầu về mì ăn liền toàn cầu năm 2019 tăng 3,45% so với năm trước đó. Nhưng năm 2020 đã tăng 14,79% so với năm 2019. Do nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng tăng mạnh dưới tác động của dịch Covid-19.
Mặc dù Trung Quốc có nhu cầu mì ăn liền cao nhất thế giới. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng về tiêu thụ mì ăn liền không cao như Việt Nam. Nhu cầu mì ăn liền của Việt Nam đang đứng thứ ba thế giới với lượng tiêu thụ năm 2020 tăng 29,47% so với năm 2019.